Ẩm thực Việt vốn hấp dẫn. Cứ hễ ở đâu nông sản bốn mùa dồi dào, gia vị phong phú, bò gà lợn đầy sân, tôm cua cá kín ao là tự khắc đồ ăn sẽ ngon, cũng bởi các bà nội trợ sẵn nguyên liệu để thỏa sức sáng tạo. Mà phàm đồ ăn ngon thì dân chốn đó cũng ham mê ăn uống. Riêng trong kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam thôi đã thấy vô số chuyện dính đến tật tham ăn...
Nào là anh chồng lừa vợ đi vắng ăn vụng khoai nướng,
đúng lúc vợ về sợ quá bỏ tọt vào trong quán, khoai nóng quá mới nhảy cẫng lên,
vợ hỏi thì bảo “Tôi thấy nhà về tôi mừng quá nên mới nhảy cỡn lên thế”. Rồi có
cô vợ biết chồng tham ăn nên chồng đi ăn cỗ mới nghĩ ra cách buộc dây vào chân
chồng, đầu dây kia nối ra tận ngoài sân, đoạn dặn “Lúc nào tôi giật dây thì
mình mới được gắp thịt nhá”. Không ngờ dây vướng vào chân con gà, gà nhảy tưng
tưng, chồng thấy dây giật liên tục mới mừng rỡ gắp lấy gắp để loáng cái hết đĩa
thịt gà. Lại cả chuyện ông đồ đi ăn cỗ, thấy ngon muốn ăn mang về mấy chiếc
nhưng ngại, mới đưa cho đứa học trò bảo ăn đi nhưng nháy mắt, ý là cất đi cho
thầy. Trò thì đần, thấy thế tưởng thầy cho thật bóc ra ăn hết sạch. Sau trên
đường về thầy tức quá cà khịa trò rồi ấm ức “Bánh tao đâu?”.
Samuel Baron, một thương nhân Hà Lan có mẹ là người
Việt, sau khi đến Việt Nam công tác lần đầu tiên vào năm 1678 đã phải thốt lên
“Dưới gầm trời lồng lộng này, khó mà kiếm được một dân tộc nào phàm ăn như
người xứ này”. Ngay cả cách chào nhau ông cũng thấy người Việt rất kỳ lạ, không
hỏi thăm nhau có khỏe không mà “Đã ăn cơm chưa?”, còn nếu đi thăm người ốm thì
sẽ hỏi “Mỗi bữa bác ăn được mấy bát cơm?” hoặc “Bác ăn có ngon miệng không?”.
Như vậy, sức khỏe sẽ được đánh giá bằng số lượng bát cơm.
Trong khẩu ngữ thường ngày, bộ phận cơ thể dùng để
đựng thức ăn dường cũng chứa đầy cảm xúc. Hầu hết các dân tộc đều dùng từ “tốt
tim” để ca ngợi một người tốt, còn riêng chúng ta dùng từ “tốt bụng” (nên ta
mới hay “suy bụng ta ra bụng người”). Kẻ xấu xa, độc ác đương nhiên là “lòng
lang dạ sói”. Gặp người hảo tâm, Tây họ gọi là “trái tim vàng”, ta bảo “tấm
lòng vàng”. Tây miêu tả sự chân thành từ “đáy tim” thì tất nhiên ta phải tận
“đáy lòng”. Ai làm được điều gì khiến ta vui thì ta “mát lòng mát dạ”, ta trả
thù được ai thì ta “hả lòng hả dạ”, giải quyết được xong vấn đề thì ta “nhẹ
lòng”, lo lắng quá ta lại “nhọc lòng”. Yêu ai ta không “phải tim”mà “phải
lòng”, muốn xem tấm chân tình của ai ta “thử lòng” để biết họ “thật lòng” không
hay lòng dạ là đồ fake, nếu không phải vậy ta nói thẳng cho họ “mất (luôn bộ) lòng”.
Tiếc của ta “xót ruột”, tức khí ta “lộn ruột”, thậm chí là “tím ruột”, phàm khi
có việc bồn chồn thì ta “sốt ruột”. Chuyện buồn khiến người xứ khác thấy “nhói
tim” thì ta “đau lòng”, “buồn lòng” văn vẻ hơn nữa thì “nhói lòng”, “buốt lòng”
hoặc lấn cấn đến “nặng lòng”.
Ngay cả cái sự chậm hiểu dường như chỉ liên quan đến
não, cơ quan xa tít dạ dày, đại tràng, thế mà cũng vẫn cứ là “tối dạ”. Thậm chí
nhạc sĩ Phạm Tuyên còn xúc động đến mức viết ra ca từ của nhạc phẩm nổi tiếng
“Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng”. Tây mà lao vào học tiếng Việt, hễ cứ đụng
đến những từ miêu tả cảm xúc chỉ thấy toàn lòng,
dạ, ruột, bụng thì tẩu hỏa nhập ma. Cơ mà đấy là bộ phận thiêng liêng nhất,
quý giá nhất dành cho việc yêu thích nhất là ăn thì nhiều cảm xúc là đúng rồi.
Việc ăn ở đây quan trọng đến nỗi trong kho từ vựng
ngôn ngữ Việt, mà có lẽ là ngôn ngữ duy nhất trên thế giới ghép từ “Ăn” vào các
động từ và danh từ khác thành một hình thái từ mới, cho dù có bỏ “Ăn” đi thì
cái từ ghép ấy nó cũng chẳng thay đổi ý nghĩa tẹo nào, ấy là: Ăn học, Ăn nói,
Ăn mặc, Ăn diện, Ăn chơi, Ăn xin, Ăn trộm, Ăn cướp, Ăn ở, Ăn nằm, Làm ăn… Rồi
thậm chí “Ăn” quan trọng đến nỗi bỏ tiếng ấy đi thì từ không còn có nghĩa nữa:
Ăn ý, Ăn khách, Ăn ảnh, Ăn theo, Ăn bớt, Ăn khớp, Ăn nhập… Mà khổ nỗi thuở đất
nước còn trẻ, đa phần dân cư là cơ hàn, nên có thèm ăn lắm cũng mới lâu lâu
được bữa no nên hễ không có dịp thì thôi, được thể thì việc gì cũng phải kèm ăn
vào cho bõ, thế là người ta ghép tiếp: Ăn Tết, Ăn giỗ, Ăn mừng, Ăn khao… Ghép
đến mức này thì việc ăn không còn là chuyện cầm hơi hay thưởng thức nữa mà đã
biến thành thông lệ, thành luật bất thành văn, thậm chí là nỗi khổ, là nô lệ
của sự ăn. Cuối cùng cái sự thưởng thức bỗng biến thành món nợ miệng, nợ đồng
lần.
Từ năm 1915, cụ Phan Kế Bính đã viết “Tục ta trọng
việc sự thần lại trọng việc ăn uống, động một tý thì nào bò nào lợn, nào xôi
nào thịt, nay tế bái thì mai lại giỗ hậu, nay việc công thì mai lại việc tư,
quanh năm chỉ những ăn uống… Người thi đỗ, người được bổ làm quan, người được phẩm
hàm đều phải khao vọng… Lại có một câu nữa là “Vô vọng bất thành quan” (không
khao vọng không phải là quan). Cứ như câu ấy thì ra có xôi thịt cho họ ăn thì
họ tôn kính, mà kém xôi thịt thì họ coi thường”. Cụ Phan bất bình vì người Việt
ta thuở ấy, hễ động việc gì cũng phải ăn, phải mời ăn, thậm chí là đám ma đưa
người chết ra đồng cũng bày biện ăn uống linh đình. “Đã gọi là nghĩa vụ thì khi
người ta đau đớn có thể giúp được gì thì giúp chứ ai còn tưởng gì đến sự ăn
uống. Mà hiếu chủ đang lúc buồn bã âu sầu, còn bụng nào mà nghĩ đến việc thù
tiếp. Vậy mà ép cho người ta phải cỗ bàn khoản đãi thì cái nghĩa vụ giúp nhau ở
đâu”. Cụ Trần Huy Liệu sau này cũng đồng tình “Có nhiều người khánh kiệt gia
tài vì một bữa hương ẩm”.
Sang đến thế kỷ 21, cũng chẳng ai thèm ăn mấy nữa,
thậm chí người ta còn sợ ăn, nhịn ăn, còn uống thuốc giảm béo để ức chế sự thèm
ăn. Nhưng cái việc ăn vẫn không thể thiếu. Người ta vẫn ăn uống linh đình bất
kể dịp nào, dù chỉ vừa nhận bằng thạc sĩ hay mua một chiếc xe mới. Mà đã mời ai
thì mâm cao cỗ đầy, đồ ăn tú hụ mặt bàn, dẫu là chốn túng thiếu hay thuở bao
cấp eo hẹp cũng vẫn phải cậy cục cho được vài mâm tươm tất. Xưa nhiều nhà thôn
quê nghèo, gia cảnh có mỗi con gà nuôi cải thiện nhưng hễ mà có khách quý thì
cũng phải bấm bụng mà làm bữa thịt. Nữa là giờ đã có tiền. Nhất là tiệc cưới. Ở
quê ăn cưới là phải mời cả làng, lai rai đến ba ngày. Còn thành thị gói gọn
trong một bữa, nhà giai nhà gái tổ chức chung nhau, nên tiệc cưới lên đến hàng
nghìn người. Đúng giờ tiệc, khách ào đến, vội vàng bỏ tiền mừng vô hòm quà hỉ,
rồi tranh thủ ăn quàng để về còn làm việc khác. Nhìn bữa tiệc cả ngàn con người
ngồi ăn rào rào, thậm chí còn không cả ngẩng mặt lên mà ngắm cô dâu chú rể, và
cô dâu chú rể cũng có biết đấy là ai đâu, toàn khách đâu xa lắc của tứ thân phụ
mẫu, nên đành nâng cốc đi từng bàn mà chúc đại. Chỉ trong vòng một tiếng, hầu
hết khách đã rút sạch, để lại ngổn ngang chén đĩa và thức ăn thừa đến cám cảnh...
(Tật xấu người Việt – Di Li – Nxb Hội Nhà Văn, 2023)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét